Theo quy định tại Quyết định số 868/QĐ-BTP ngày 07 tháng 05 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức như sau
Theo quy định tại Quyết định số 868/QĐ-BTP ngày 07 tháng 05 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức như sau
Hội đồng Trường được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Điều lệ trường đại học và các văn bản hướng dẫn thi hành.
b) Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng
Hiệu trưởng là người đại diện cho Trường trước pháp luật, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động của Trường trước Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao của Trường.
Phó Hiệu trưởng là người giúp Hiệu trưởng trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của Trường; được Hiệu trưởng phân công trực tiếp quản lý một số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác; chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng và trước pháp luật về những lĩnh vực công tác được phân công. Số lượng Phó Hiệu trưởng của Trường theo quy định pháp luật.
c) Hội đồng Khoa học và Đào tạo
Hội đồng Khoa học và Đào tạo có Chủ tịch, thư ký và các thành viên; có số lượng thành viên là số lẻ từ 11 đến 25 thành viên, bao gồm: Hiệu trưởng, một số phó hiệu trưởng; trưởng của một số khoa, viện, phòng chức năng trong Trường; đại diện giảng viên, nghiên cứu viên của nhà trường có chức danh giáo sư, phó giáo sư hoặc trình độ tiến sĩ; một số đại diện các nhà khoa học có liên quan hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường, không phải giảng viên cơ hữu hoặc cán bộ quản lý cơ hữu của Trường (nếu cần thiết).
Hội đồng Khoa học và Đào tạo được tổ chức và hoạt động theo quy định Luật Giáo dục đại học, Điều lệ trường đại học và các văn bản hướng dẫn thi hành.
d) Các đơn vị trực thuộc Trường:
- Khoa Pháp luật hành chính - nhà nước;
- Khoa Pháp luật thương mại quốc tế;
- Phòng Quản lý khoa học và trị sự Tạp chí;
- Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo;
- Trung tâm Thông tin thư viện;
- Trung tâm Công nghệ thông tin;
Việc thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các đơn vị tại điểm d khoản 1 Điều này do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định trên cơ sở đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ và Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác giữa các đơn vị trực thuộc Trường do Hiệu trưởng quy định.
đ) Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, đoàn thể và tổ chức xã hội
- Đảng bộ Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Công đoàn Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Hội Cựu chiến binh Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Chi hội Luật gia Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Hội Sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội.
Đảng bộ, các đoàn thể và các tổ chức xã hội của Trường được thành lập, tổ chức và hoạt động theo điều lệ của Đảng, điều lệ của các đoàn thể, tổ chức xã hội và theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
2. Biên chế công chức và số lượng người làm việc
Biên chế công chức và số lượng người làm việc tại các đơn vị theo điểm d khoản 1 Điều này do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ và Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trách nhiệm và mối quan hệ công tác giữa Trường với Lãnh đạo Bộ, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan được thực hiện theo Quy chế làm việc của Bộ Tư pháp và các quy định cụ thể sau:
1. Trường chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng và Thứ trưởng được Bộ trưởng phân công phụ trách, có trách nhiệm tổ chức thực hiện, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và trước pháp luật về kết quả giải quyết công việc được giao.
2. Trường là đầu mối giúp Lãnh đạo Bộ thực hiện quan hệ với Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức khác trong lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Trường. Trường chịu trách nhiệm độc lập về các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Trường theo quy định pháp luật và phân cấp của Bộ Tư pháp.
3. Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 2 Quyết định này, nếu phát sinh những vấn đề có liên quan đến các đơn vị thuộc Bộ thì Trường có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị đó để giải quyết.
Khi có yêu cầu của các đơn vị thuộc Bộ về việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trường thì Trường có trách nhiệm phối hợp giải quyết.
Trường hợp phát sinh vấn đề vượt quá thẩm quyền hoặc có ý kiến khác nhau giữa Trường với các đơn vị có liên quan thuộc Bộ thì Hiệu trưởng có trách nhiệm báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng phụ trách trực tiếp.
4. Quan hệ công tác giữa Trường và một số đơn vị liên quan thuộc Bộ Tư pháp:
a) Chủ trì, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng và thực hiện các đề án, chương trình, kế hoạch công tác về tổ chức, biên chế, quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý sử dụng đội ngũ công chức, viên chức và quy mô tuyển sinh, đào tạo cán bộ pháp luật của Trường theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ Tư pháp.
b) Chủ trì, phối hợp với Vụ Kế hoạch - Tài chính xây dựng và thực hiện các kế hoạch, dự toán ngân sách nhà nước và các hoạt động tài chính có liên quan theo quy định của pháp luật.
c) Chủ trì, phối hợp với Vụ Hợp tác quốc tế xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của Trường theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ Tư pháp.
d) Chủ trì, phối hợp với Viện Khoa học pháp lý xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch nghiên cứu khoa học của Trường theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ Tư pháp.
đ) Phối hợp với các đơn vị xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp trong việc xây dựng, thẩm định, góp ý văn bản thuộc chức năng, nhiệm vụ của Trường theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ Tư pháp.
e) Phối hợp với các cơ sở đào tạo thuộc Bộ trong việc đào tạo và nghiên cứu khoa học thuộc phạm vi quản lý của Trường.
g) Phối hợp với các đơn vị khác thuộc Bộ thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và quy chế làm việc của Bộ Tư pháp.
5. Quan hệ công tác giữa Trường với các đơn vị thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành liên quan, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và chính quyền địa phương được thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Địa chỉ: 87 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
IELTS TUTOR lưu ý mức học phí Trường đại học Luật Hà Nội c ụ thể như sau:
IELTS TUTOR lưu ý mức học phí theo hệ đào tạo năm 2021 cụ thể như sau:
IELTS TUTOR lưu ý mức học phí của Đại học Luật Hà Nội năm 2022 có sự khác nhau giữa các chương trình đào tạo, cụ thể:
IELTS TUTOR lưu ý học phí theo ngành học và chương trình học hiện nay cụ thể là:
Km 9, đường Nguyễn Trãi, phường Trung Văn, quận
Trường Đại học Hà Nội (tiếng Anh: Hanoi University, tên viết tắt: HANU) là một trong hai cơ sở đào tạo và nghiên cứu ngoại ngữ ở trình độ đại học và sau đại học; cơ sở đào tạo chuyên ngành bằng ngoại ngữ; cung cấp các dịch vụ về ngoại ngữ lớn nhất Việt Nam.[2] Là cơ sở giáo dục công lập đầu tiên tại Việt Nam giảng dạy tất cả các chuyên ngành hoàn toàn bằng ngoại ngữ cùng bề dày lịch sử hoạt động hơn 60 năm, Trường đã từng bước khẳng định vị thế là trường đại học công lập uy tín trong đào tạo ngoại ngữ ở cả ba cấp độ Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ.
Trường được thành lập ngày 16/7/1959 theo quyết định số 376/NĐ-BGD với tên gọi Trường Ngoại ngữ. Trải qua hơn 60 năm hình thành và phát triển, Nhà trường đã có một số lần được đổi tên, mỗi sự kiện ấy đều gắn với những thăng trầm và bối cảnh lịch sử xã hội theo từng thời kỳ như: Trường Ngoại ngữ (1959-1960), Trường Bổ túc Ngoại ngữ (1960-1967), Trường Đại học Ngoại ngữ (1967-1978), Trường Cao đẳng Bổ túc Ngoại ngữ (1978-1984), Trường Đại học Ngoại ngữ (1984-2006) và từ ngày 15 tháng 9 năm 2006, theo quyết định số 190/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, trường chính thức mang tên mới là Trường Đại học Hà Nội (tên giao dịch tiếng Anh là Hanoi University - HANU).
Trong hơn 60 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Hà Nội đã trải qua 04 giai đoạn chính:
Chiến thắng Điện Biên Phủ (ngày 7/5/1954) và Hiệp định Giơ-ne-vơ (ký ngày 20/7/1954) đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược và đế quốc Mỹ can thiệp. Đất nước ta bước sang giai đoạn mới với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi miền Bắc phải khẩn trương phục hồi nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá và tạo dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội một cách toàn diện cả về công nghiệp và nông nghiệp, củng cố an ninh - quốc phòng, phát triển văn hoá - giáo dục nhằm xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam.
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đó, Đảng ta chủ trương tự lực cánh sinh là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế về kỹ thuật và chuyên gia, dựa vào hệ thống giáo dục tiên tiến của các nước XHCN anh em để nhanh chóng đào tạo một đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật toàn diện. Một vấn đề cấp bách được đặt ra và yêu cầu được đáp ứng, đó là:
- Bồi dưỡng cấp tốc về ngoại ngữ cho hàng ngàn học sinh và cán bộ được tuyển chọn đi học đại học ở nước ngoài;
- Đào tạo thường xuyên ở trong nước đội ngũ phiên dịch phục vụ công tác của các chuyên gia nước ngoài.
Chính vì lý do đó, ngày 01/11/1959, tại cơ sở của Tổng cục Hậu cần Bộ Quốc phòng dựng tạm bằng tre nứa ở xã Ngọc Thụy - huyện Gia Lâm - Hà Nội, khoá chuyên tu tiếng Nga và tiếng Trung Quốc đầu tiên được khai giảng, mở ra trang thứ nhất trong lịch sử 60 năm xây dựng và phát triển của một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu ngoại ngữ lớn và có uy tín ở Việt Nam là Trường Ngoại ngữ (ngày nay là Trường Đại học Hà Nội).
Trong khoảng thời gian 07 năm đầu thành lập (1959-1966), Trường đã đổi tên 2 lần, từ Trường Ngoại ngữ thành Trường Bổ túc Ngoại ngữ. Đây là giai đoạn có biến động mạnh về số lượng cán bộ, giảng viên cũng như đối tượng và số lượng sinh viên cần đào tạo và bồi dưỡng. Từ những ngày đầu giảng dạy với giáo trình “ăn đong”, chép tay từng bài, Nhà trường đã triển khai biên soạn và in giáo trình bài bản hơn cùng các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc. Hoạt động trao đổi học thuật chủ yếu để phục vụ đào tạo cũng được tổ chức đều đặn trong thời kỳ gian khổ đấy, làm nền tảng cho các nghiên cứu về khoa học ngoại ngữ, chuẩn bị cho sự ra đời của Nội san Ngoại ngữ vào năm 1967 (từ năm 2005 trở thành Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ, tạp chí đầu tiên của Việt Nam trong lĩnh vực này). Trong điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn tại Gia Lâm và sau này là Mễ Trì (Từ Liêm, Hà Nội) cũng như trong hoàn cảnh chiến tranh ném bom bắn phá miền Bắc của đế quốc Mỹ, tất cả đội ngũ của Nhà trường từ lãnh đạo cao nhất đến đội ngũ các anh, chị nuôi đã luôn làm việc tận tâm, tất cả vì chất lượng học tập và đời sống của sinh viên. Nhà trường đã sẵn sàng đón đầu thời cơ phát triển mới.
Đây là một giai đoạn dài với nhiều sự kiện thăng trầm đã diễn ra trong quá trình xây dựng và phát triển của Nhà trường. Những thách thức mà Nhà trường phải đối diện giai đoạn này là: đào tạo một số lượng lớn lưu học sinh, cán bộ biên - phiên dịch, giảng viên ngoại ngữ trong thời kỳ chiến tranh gian khổ cũng như thời kỳ tái thiết đất nước khi hòa bình lập lại; biến cố trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc dẫn đến việc cả nước dừng đào tạo ngành Ngôn ngữ Trung Quốc từ năm 1978 đến năm 1986; cuộc khủng hoảng chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu dẫn đến việc dừng đào tạo lưu học sinh cũng như đào tạo ngôn ngữ của một số nước này… Trước những sự kiện đó, Nhà trường đã từng bước xoay chuyển cục diện, biến khó khăn thành hành động, thay đổi cơ cấu tổ chức, hình thức đào tạo, ngành nghề đào tạo, thiết lập quan hệ hợp tác với nước ngoài, tranh thủ tối đa sự tài trợ về cơ sở vật chất và thiết bị của các đối tác nước ngoài, đưa Nhà trường phát triển đi lên, làm nền tảng vững chắc cho sự phát triển mạnh mẽ để sau này trở thành một trường đại học đa ngành.
Các mốc lịch sử của Nhà trường giai đoạn này:
- Năm 1967, Từ Trường Bổ túc ngoại ngữ, Nhà trường được Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký Quyết định số 126/CP thành lập Trường Đại học Ngoại ngữ. Từ thời điểm này, Nhà trường chính thức trở thành cơ sở giáo dục đại học;
- Năm 1977, trước những khó khăn của đất nước trong hoàn cảnh bắt đầu công cuộc tái thiết sau chiến tranh và tình hình đào tạo của Nhà trường, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đã quyết định chuyển nhiệm vụ đào tạo cán bộ chuyên ngành ngoại ngữ (phiên dịch và giáo viên) mà Nhà trường đang thực hiện sang một cơ sở giáo dục đại học khác và đổi tên Trường Đại học Ngoại ngữ thành Trường Cao đẳng Bổ túc ngoại ngữ;
- Năm 1984, đánh dấu 25 năm xây dựng và phát triển, Nhà trường được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba lần thứ hai và đổi tên Trường Cao đẳng Bổ túc Ngoại ngữ thành Trường Đại học Ngoại ngữ;
- Năm 1989 và năm 1994, với những thành tích đã đạt được, đóng góp vào sự nghiệp cải cách giáo dục trong ngành ngoại ngữ, Nhà trường được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng Nhất nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Trường (1959-1989) và 35 năm thành lập Trường (1959 – 1994).
Trong bối cảnh đất nước đã đã thực sự mở cửa và sẵn sàng hội nhập sau những thay đổi tích cực nhờ chủ trương đổi mới của Nhà nước. Đây vừa là một cơ hội, vừa là một thách thức đối với ngành giáo dục nói chung và với Trường Đại học Ngoại ngữ nói riêng. Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường luôn tích cực tìm tòi để không ngừng phát triển, đáp ứng được nhu cầu đào tạo trong bối cảnh mới, vượt ra ngoài khuôn khổ chỉ giảng dạy chuyên ngữ. Phát huy thế mạnh truyền thống về giảng dạy và nghiên cứu ngoại ngữ, Nhà trường đã mạnh dạn tiên phong đi đầu toàn quốc trong việc mở các chuyên ngành dạy-học bằng ngoại ngữ.
Trước nhu cầu của xã hội về nguồn nhân lực vừa có chuyên môn tốt, vừa giỏi ngoại ngữ, năm 2000, Nhà trường đã đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo cho mở các chuyên ngành giảng dạy bằng tiếng Anh. Được sự ủng hộ của Bộ, nhiều chuyên ngành đã được triển khai như: Quản trị Kinh doanh (năm 2002), Quản trị Dịch vụ Du lịch và Lữ hành (năm 2002), Quốc tế học (năm 2002), Công nghệ Thông tin (năm 2005), Tài chính – Kế toán (năm 2006). Riêng ngành CNTT còn có 01 chương trình cử nhân giảng dạy bằng tiếng Nhật (năm 2007). Việc Nhà trường mở thêm 06 chuyên ngành giảng dạy bằng ngoại ngữ đã khẳng định mạnh mẽ quyết tâm trở thành một trường đại học đa ngành. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn Trường mở thêm một số ngành đào tạo ngôn ngữ mới, phục vụ cho nhu cầu đối ngoại cũng như thị trường lao động của thời kỳ toàn cầu hoá: ngôn ngữ Tây Ban Nha (năm 2002), ngôn ngữ Italia (năm 2002), ngôn ngữ Hàn Quốc (năm 2002), ngôn ngữ Bồ Đào Nha (năm 2004), tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam (dành cho người nước ngoài, năm 2004).
Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 190/2006/QĐ-TTg ngày 17/8/2006 việc đổi tên Trường Đại học Ngoại ngữ thành Trường Đại học Hà Nội. Việc mở thêm 11 ngành mới trong đó có nhiều ngành đáp ứng được nguồn nhân lực chất lượng cao, giỏi chuyên môn và thành thạo ngoại ngữ cũng như việc đổi tên thành Trường Đại học Hà Nội năm 2006 đã thực sự đem lại cho Trường Đại học Ngoại ngữ một vị thế mới trong nền giáo dục quốc dân.
Năm 2004, với những thành tích đã đạt được Trường Đại học Hà Nội được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập Hạng Ba nhân dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Trường (1959–2004).
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, hội nhập giáo dục đại học quốc tế là xu hướng tất yếu trong định hướng và chiến lược phát triển của tất cả các cơ sở giáo dục đại học trong nước, trong khu vực và trên thế giới. Sự cạnh tranh giữa các trường đại học, các cơ sở giáo dục đại học trong nước, các chương trình liên kết với nước ngoài và các trường đại học nước ngoài tại Việt Nam diễn ra quyết liệt. Bên cạnh đó là các vấn đề phân tầng, kiểm định chất lượng, xếp hạng các trường đại học đòi hỏi các cơ sở giáo dục đại học phải không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo. Trường Đại học Hà Nội không nằm ngoài xu thế và dòng chảy chung đó của thời đại - thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0.
Giai đoạn 2009-2019 có thể coi là giai đoạn bản lề cho định hướng quốc tế hóa các chương trình đào tạo nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập giáo dục đại học quốc tế, từng bước tự chủ về tài chính, tiến tới thực hiện cơ chế tự chủ hoàn toàn và tự chịu trách nhiệm công khai, giải trình về tất cả các lĩnh vực hoạt động của Trường. Đây được xem là tiền đề, là mục tiêu cũng như thế mạnh của Nhà trường trong tiến trình đổi mới và hội nhập. Trong giai đoạn này, Trường đã mở thêm 03 chương trình cử nhân chuyên ngành dạy-học bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, 03 chương trình ngôn ngữ chất lượng cao, 02 chương trình thạc sĩ và đặc biệt là 13 chương trình liên kết. Bên cạnh hợp tác quốc tế trong trao đổi sinh viên, giảng viên, chuyên viên thì Nhà trường còn đẩy mạnh hợp tác để xây dựng chương trình, giáo trình, hội thảo khoa học; hợp tác thực hiện dự án, đề tài nghiên cứu; hợp tác quốc tế trong hoạt động phụng sự cộng đồng.
Nhiệm vụ cơ bản của trường là đào tạo cán bộ biên phiên dịch và giáo viên ngoại ngữ bậc đại học, đào tạo cử nhân một số ngành bằng ngoại ngữ, bồi dưỡng, bổ túc ngoại ngữ cho sinh viên và nghiên cứu sinh và thực tập sinh Việt Nam đi học ở nước ngoài.
Trường Đại học Hà Nội đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực ngoại ngữ có trình độ đại học, sau đại học cho các ngành kinh tế-xã hội của đất nước; trang bị ngoại ngữ cho lưu học sinh, nghiên cứu sinh, thực tập sinh đi học nước ngoài; bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý của các Bộ, ban ngành Trung ương và địa phương trong cả nước.
Trường Đại học Hà Nội đang phấn đấu trở thành trường đại học nghiên cứu ngang tầm các nước có nền giáo dục phát triển trong khu vực và trên thế giới. Nghiên cứu ứng dụng là một trong những hướng nghiên cứu khoa học trọng tâm của nhà trường. Thế mạnh về nghiên cứu khoa học ngoại ngữ, trong đó có phương pháp giảng dạy ngoại ngữ cho các trường chuyên ngữ, nghiên cứu giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành, nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ, văn hóa-văn minh v.v. đã được khẳng định trên cơ sở kết quả nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học các cấp đã được công bố hàng năm. Nhà trường là cơ quan chủ quản của Tạp chí khoa học ngoại ngữ - tạp chí chuyên ngành duy nhất của Việt Nam nghiên cứu về khoa học ngoại ngữ.
Nhà trường có các trung tâm đào tạo, nghiên cứu chuyên sâu, đáp ứng nhu cầu của xã hội như: Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam cung cấp kiến thức về văn hóa, đào tạo tiếng Việt ngắn hạn cho người nước ngoài; Trung tâm tư liệu và tiếng Anh chuyên ngành cung cấp từ liệu, mở các khóa đào tạo tiếng Anh chuyên ngành (kinh tế, du lịch, thương mại, ngân hàng v.v…) cho mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; Trung tâm đào tạo từ xa đào tạo cử nhân ngoại ngữ trên phạm vi cả nước có ứng dụng phần mềm dạy tiếng chuyên dụng; Trung tâm dịch thuật đáp ứng mọi nhu cầu về đào tạo nghiệp vụ và dịch vụ về ngoại ngữ; Trung tâm công nghệ-thông tin quản lý và triển khai các đề tài nghiên cứu ứng dụng, thực hiện các hợp đồng dịch vụ về phần mềm quản lý hành chính, chuyên môn cho các cơ sở đào tạo, quản lý giáo dục, các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước.
Trường Đại học Hà Nội có khả năng giảng dạy hơn mười thứ tiếng thông dụng trên thế giới: tiếng Việt (dành cho người nước ngoài), tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ý, tiếng Hàn, tiếng Thái và tiếng Ba Lan. Trong số các ngoại ngữ nêu trên có 10 chuyên ngành tiếng đào tạo cử nhân ngoại ngữ với chương trình học 4 năm, có 4 chuyên ngành tiếng đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ 2 hoặc 3 năm. Trong quá trình học, hết năm thứ nhất, sinh viên có thể: dự thi vào lớp "Cử nhân tài năng" học theo chương trình tăng cường, chất lượng cao; hoặc đăng ký học song ngữ.